Văn hóa
2019-12-24 11:21:11

TDS - TS Frank Proschan, cựu cán bộ chương trình cao cấp của UNESCO, cố vấn của UNESCO về Công ước 2003 về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể, học giả Fullbirght 2019 -2020 đã khẳng định điều này tại Hội thảo chuyên đề “Huy động truyền thông trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể”.

Hội thảo do UNESCO Hà Nội, Cục Di sản văn hóa và Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam vừa phối hợp tổ chức tại Hà Nội.

Nghệ thuật Dân ca quan họ Bắc Ninh. Ảnh Hải Nguyễn

Nếu vậy, Hát Then, Ca Trù, Nhã nhạc cung đình Huế, Dân ca Quan họ Bắc Ninh hay Hát Xoan… không có tính “nhân loại” mà chỉ là di sản văn hóa phi vật thể của một cộng đồng ở Việt Nam. Trong khi đó Tổng Thư ký UNESCO tại Việt Nam lại khẳng định rằng không thể có sự nhầm lẫn trên.

Nhiều thuật ngữ bị dùng sai

Theo TS Frank Proschan, trong Công ước năm 2003 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể không có khái niệm di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Các thuật ngữ có vấn đề, đang được nhiều tờ báo sử dụng có thể kể đến như: “di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”, “di sản văn hóa phi vật thể thế giới”, “UNESCO công nhận”... Công ước ghi rõ: “Di sản văn hóa phi vật thể” được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng cũng như những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ.

“Tức là di sản văn hóa phi vật thể chỉ được sở hữu, công nhận bởi cộng đồng, nhóm cá nhân và một số trường hợp là các cá nhân. Không có di sản văn hóa phi vật thể nào thuộc sở hữu của quốc gia hay của nhân loại mà chỉ có di sản văn hóa phi vật thể hiện có tại quốc gia nào đó”, TS Frank Proschan nhấn mạnh. Việc báo chí thông tin tới cộng đồng rằng UNESCO vinh danh, công nhận di sản nào đó là đại diện của nhân loại đã gây ra cách hiểu sai, rằng di sản đó được công nhận bởi UNESCO. Thực tế, di sản chỉ duy nhất được công nhận bởi cộng đồng sở hữu nó. Dùng khái niệm, thuật ngữ sai dẫn đến hiểu sai bản chất của di sản, tương đồng với ứng xử sai, thậm chí can thiệp sâu đối với việc thực hành và bảo vệ di sản...

Kết quả kiểm tra tỉ lệ sử dụng thuật ngữ chưa chính xác qua việc sử dụng công cụ tìm kiếm của Google cho thấy, phần lớn thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều văn bản của cơ quan quản lý nhà nước, của chuyên gia, nhà nghiên cứu cũng chuyển tải sai là “UNESCO vinh danh, công nhận di sản văn hóa phi vật thể nào đó là của thế giới”. Đây là cách hiểu lầm tai hại. Vì nếu hiểu di sản văn hóa phi vật thể nào đó là của quốc gia, của nhân loại thì quốc gia, nhân loại có quyền can thiệp, thậm chí can thiệp quá sâu, làm ảnh hưởng đến quyền của cộng đồng sở hữu di sản, làm di sản trở nên méo mó.

Nhưng chuyên gia Frank Proschan cũng nói thêm, việc sử dụng các khái niệm, thuật ngữ chưa chính xác không chỉ có ở Việt Nam, cũng không chỉ có ở báo chí mà có thể bắt gặp ở nhiều quốc gia, châu lục, cũng như ở nhiều đối tượng khác. Và việc đổ lỗi cho báo chí cũng không đúng. Ở một góc nhìn nào đó, cái sai này do sự bất cẩn chứ không phải cố tình, mặc dù khá nguy hiểm.

Cần sự nhập cuộc từ nhiều phía

TS Phạm Cao Quý, Cục Di sản văn hóa chia sẻ, việc sử dụng thuật ngữ sai, không chỉ riêng báo chí, đã có từ lâu. Thực trạng này xuất phát từ hai lý do, một là nhận thức, quan điểm các di sản văn hóa đó thuộc về đâu, thuộc về Nhà nước, cơ quan quản lý hay cộng đồng? Thứ nữa, có thể do các cơ quan truyền thông dường như đã nâng cao vấn đề, cho rằng vinh danh di sản thì phải ở tầm thế giới mới xứng tầm vóc? “Mọi chuyện đang chạy theo hướng “một miếng giữa làng”, cái gì cũng phải nâng lên tầm quốc tế mới “oai”. Những ngày vừa qua, ngay trong khi truyền thông đang lên cao trào thông tin về di sản Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam chính thức được UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, cực chẳng đã nhưng tôi buộc phải đăng một status trên trang cá nhân để nhắc nhở mọi người rằng: “Không phải UNESCO công nhận Then là di sản văn hóa thế giới hay nhân loại. Di sản đó không thuộc về thế giới, nhân loại! Mà nó thuộc về cộng đồng, nơi nó được lưu giữ, thực hành”...”, theo TS Phạm Cao Quý.

TS Phạm Cao Quý cũng cho rằng, việc hiểu sâu, hiểu đúng về di sản văn hóa phi vật thể là cần thiết, nhưng thực tế là rất khó, nhiều lúc mơ hồ. Điều này có liên quan đến khía cạnh tiếp cận truyền thông về Công ước 2003. Di sản văn hóa phi vật thể có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống, có những đóng góp to lớn mà đến nay chúng ta chưa đánh giá, khai thác được hết. Ông Phạm Cao Quý cho rằng, cần hình thành một mạng lưới với sự tham gia đa chiều để từ đó chia sẻ những thông tin, cách nhìn nhận, đánh giá chính xác cho mọi đối tượng, trong đó có báo chí, truyền thông.

Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.

Theo Khoản 1 Điều 1 Luật di sản văn hóa sửa đổi 2009

Di sản thuộc về nhân loại?

Nếu như theo Công ước 2003, không có Di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia hay của nhân loại mà chỉ có Di sản văn hóa phi vật thể của cộng đồng tại một quốc gia nào đó thì đồng nghĩa với việc Hát Then, Ca Trù, Nhã nhạc cung đình Huế, Dân ca Quan họ Bắc Ninh hay Hát Xoan… không phải là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại mà là di sản văn hóa phi vật thể của một cộng đồng ở Việt Nam.

Như vậy, từ trước đến nay, danh xưng “Di sản văn hóa phi vật thể” do UNESCO công nhận là một sự nhầm lẫn. Nói một cách dễ hiểu hơn, Di sản văn hóa không thuộc về thế giới, nhân loại mà thuộc về cộng đồng, nơi di sản đó được lưu giữ, thực hành.

Theo bà Phạm Thị Thanh Hường - Phụ trách chương trình Văn hóa, Văn phòng UNESCO tại Hà Nội, việc hiểu và chuyển tải sai về Di sản văn hóa phi vật thể theo tinh thần của Công ước 2003 đã tồn tại từ lâu. Các sai lệch bắt nguồn từ việc chuyển ngữ từ tiếng Anh, tiếng Pháp sang tiếng Việt. Do điều kiện hoạt động truyền thông của UNESCO còn hạn chế nên ngay cả thông tin về các phiên họp của UNESCO cũng chưa cập nhật kịp thời, liên tục được.

Di sản văn hóa phi vật thể có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống văn hóa của một quốc gia, đặc biệt là Việt Nam. Tuy nhiên, để hiểu đúng về Di sản văn hóa phi vật thể không phải điều dễ dàng. Có thể, nhận thức, quan điểm và truyền thông về các di sản văn hóa ở Việt Nam còn mơ hồ nên dẫn đến việc nhầm lẫn về thuật ngữ “Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới, nhân loại”.

Mặc dù vậy, tại trang web của Cục di sản văn hóa, ở mục, di sản văn hóa phi vật thể, Cục này vẫn ghi danh sách các di sản văn hóa ghi rất rõ ràng: Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Vậy có sự khác biệt nào giữa khái niệm này với khái niệm “Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại” mà chúng ta đang dùng?

Sáng ngày 20.12, trao đổi với PV Lao Động, ông Mai Phan Dũng - Tổng Thư ký UNESCO tại Việt Nam vẫn cho rằng, quy trình được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể khá phức tạp, chặt chẽ và phải trải qua nhiều bước. Hiện tại, theo ông Dũng, trên thế giới có 50 quốc gia chưa có Di sản văn hóa phi vật thể nhân loại. Mỗi năm có 50 hồ sơ xin xét duyệt được gửi lên UNESCO, trong đó mỗi quốc gia chỉ được 1 hồ sơ. Trên thực tế, UNESCO từng trả hồ sơ nghệ thuật Hát Then của Việt Nam, dù hồ sơ đã qua rất nhiều vòng thẩm định, đánh giá bởi các chuyên gia.

Theo cách hiểu trước đây, Việt Nam đã có 12 Di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận là “Di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại (thế giới)”, bao gồm: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Ca trù, Dân ca Quan họ Bắc Ninh, Đờn ca tài tử, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Hội Gióng, Hát xoan Phú Thọ, Ví giặm Nghệ Tĩnh, Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ, Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của Người Việt và Nghi lễ và trò chơi kéo co. Mới đây nhất, thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái tại Việt Nam tiếp tục được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.

MAI CHÂU - HẢI NGỌC - PHƯƠNG HÀ

Tags: UNESCO, di sản văn hóa, sử dụng sai thuật ngữ, di sản văn hóa phi vật thể, TS Frank Proschan, cộng đồng, thực hành di sản văn hóa, Công ước 2003, bản sắc cộng đồng,